Tiểu sử Hải Thượng Lãn Ông
Hải Thượng Lãn Ông tên thật là Lê Hữu Trác sinh năm 1724 mất năm 1795 thọ 71 tuổi, Lãn Ông quê ở thôn Văn Xá, hương Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương, (nay là xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, Hưng Yên)
Hải Thượng Lãn Ông là một danh y dưới thời nhà Lê Trung hưng thế kỷ 18 của nước ta. Cuộc đời ông nổi bật gắn liền với chúa Trịnh khi năm lần bảy lượt phải bất đắc dĩ vào phủ chúa Trịnh trị bệnh cho cha con nhà chúa.
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác để lại cho đời cuốn Y tôn tâm lĩnh gồm 28 tập, 66 quyển bao gồm đủ các mặt về y học: Y đức, Y lý, Y thuật, Dược, Di dưỡng. Đồng thời bộ sách cũng phản ánh những giá trị văn học và tư tưởng trong sự nghiệp trước tác của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.
La Sơn Phu Tử – “người thầy” của vua Quang Trung

Cuộc đời Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác
Chúng ta đều biết Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là một danh y, đồng thời là một nhà văn, nhà văn hóa nổi tiếng thời vua Lê chúa Trịnh, tác giả cuốn Thượng kinh kí sự rất có giá trị về văn học và sử liệu.
Hải Thượng Lãn Ông, nghĩa là Ông già lười Hải Thượng, ghép từ chữ Hải trong Hải Dương quê cha, và chữ Thượng trong phủ Thượng Hồng quê cha và xã Bầu Thượng quê mẹ. Nhưng có lẽ ít người biết ông từng là một người… lính, mặc dù xuất thân trong một gia đình nho học.
Lê Hữu Trác sinh năm 1720 tại làng Liêu Xá xứ Hải Dương, nay thuộc xã Hoàng Hữu Nam, huyện Yên Mĩ, tỉnh Hưng Yên.
Gia đình ông vốn có truyền thống khoa bảng. Ông nội, bác, chú, anh và em họ đều đỗ tiến sĩ và làm quan to. Cha ông, cụ Lê Hữu Mưu, từng đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, làm quan Thị lang bộ Công triều Lê Dụ Tông, khi mất được truy tặng hàm Thượng thư.
Lê Hữu Trác là con thứ bảy nên còn gọi là cậu Chiêu Bảy. Thuở nhỏ cậu Chiêu Bảy theo cha sống ở kinh, nhưng đến năm 19 tuổi thì cha mất nên phải về quê, vừa trông nom gia đình vừa chăm chỉ đèn sách, mong lấy đường khoa cử để tiến thân.
Bấy giờ xã hội rối ren, hai họ Trịnh – Nguyễn phân tranh, nông dân nổi dậy, loạn lạc khắp nơi. Học được một năm, Lê Hữu Trác chuyển sang nghiên cứu binh thư, luyện tập võ nghệ, rồi sung vào quân đội, như về sau ông có hồi tưởng trong lời tựa tập Tâm lĩnh: “Nghiên cứu trong vài nămcũng biết được đại khái, mới đeo gươm tòng quân để thí nghiệm sức học của mình.”
Chẳng bao lâu sau, ông nhận ra chiến tranh chỉ tàn phá, gây đau thương, nên đâm chán nản, chỉ mong sao ra khỏi quân đội.
Năm 1746, nhân người anh ở Hương Sơn mất, ông viện cớ phải về nuôi mẹ già, cháu nhỏ thay anh, xin được giải ngũ về quê ngoại Bầu Thượng (xưa thuộc trấn Nghệ An, nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh). Năm ấy Lê Hữu Trác 26 tuổi.
Khi ở trong quân ngũ ông đã mắc bệnh dai dẳng. Nay về quê mang gánh nặng gia đình, lại thêm sớm khuya đèn sách không chịu nghỉ ngơi, Lê Hữu Trác bị ốm nặng, chạy chữa mãi cũng không khỏi. Sau may gặp được lương y Trần Độc, người Nghệ An là bậc lão nho, học rộng biết nhiều, nhiệt tình cứu chữa.
Trong thời gian chữa bệnh, nhân khi rảnh rỗi ông thường đọc Phùng thị cẩm nang, một cuốn sách bàn về nhiều việc sâu xa của nghề thuốc. Trần Độc thấy ông là người có chí, bèn đem hết những hiểu biết về y học truyền cho ông.
Nhận ra nghề y không chỉ ích lợi cho mình mà có thể giúp người, Lê Hữu Trác quyết chí theo học. Ông làm nhà cạnh rừng ở Hương Sơn, lấy tên hiệu là “Hải Thượng Lãn Ông”, tự nhận mình là ông già lười nhưng thực chất là để tránh mọi sự ràng buộc của xã hội phù hoa, giải thoát mình khỏi sự danh lợi, bon chen ở đời.
Năm 34 tuổi, Lê Hữu Trác lên kinh mong tìm thầy để học thêm vìông thấy y lí mênh mang, phải không ngừng học hỏi. Nhưng không gặp được thầy giỏi, ông bỏ tiền mua một số phương thuốc gia truyền, trở về Hương Sơn, “đóng cửa để đọc sách”, vừa học tập vừa chữa bệnh.
Mười năm sau, tiếng tăm của ông đã nổi khắp vùng Hoan Châu. Sau mấy chục năm tận tụy với nghề, Lê Hữu Trác hệ thống hóa tinh hoa lí luận Đông y cùng với những sáng tạo đặc biệt áp dụng vào điều kiện Việt Nam, đúc kết nền y học cổ truyền của dân tộc.Ông dành hơn chục năm viết bộ Y tông tâm lĩnh.
Năm Cảnh Hưng 43 (1782), khi đã 62 tuổi, Lê Hữu Trác được lệnh chúa triệu về kinh để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Tuổi cao, ức yếu, lại đã quyết chí xa đường công danh, nhưng lệnh chúa đâu dám cưỡng. Vả lại ông cũng hi vọng nhân dịp này lên kinh tìm cơ hội in bộ Tâm lĩnh mà ông đã viết xong từ lâu nhưng vẫn để đấy.
Vì vậy, một ngày đầu năm Nhâm Dần (1782), Lê Hữu Trác nhận chiếu chỉ của chúa Trịnh, từ giã gia đình, học trò, xuống thuyền lên đường ra Bắc.
Lên kinh, ông được triệu vào phủ chúa xem mạch, kê đơn cho thế tử. Chúa Trịnh Sâm khen ông “hiểu sâu y lí”, ban cho 20 suất lính hầu và bổng lộc ngang với chức quan kiểm soát bộ Hộ để giữ ông lại trong phủ.
Nhưng nỗi chua chát thì không để đâu cho hết. Nguyên khi ông vào xem mạch cho thế tử (lúc đó mới 5 tuổi), việc đầu tiên là phải thi lễ. Mặc dù đã 62 tuổi, lại là một danh y, ông vẫn phải theo lệnh quan Chính đường ra phía trước, cúc cung lạy bốn lạy.
Thế tử đã không cho miễn lễ thì chớ, lại cười mà bảo rằng: “Người này lạy khéo.” Chi tiết này về sau được Lê Hữu Trác đưa vào cuốn Thượng kinh kí sự, kể về chuyến lên kinh của mình.
Ngòi bút sắc sảo của ông đã cung cấp cho người đời một bức tranh vô cùng sinh động về thời đại của ông, trong đó một vị thày thuốc danh vang bốn bể như Lê Hữu Trác, dưới mắt một đứa trẻ con nhà chúa chỉ là một người…khéo lạy!
Lê Hữu Trác viện cớ tuổi già mắt hoa, tai điếc, thường xuyên ốm yếu để được trọ ở ngoài. Bọn ngự y ghen tị với ông, không chịu chữa đúng theo đơn, nên thế tử không khỏi. Ông biết thế nhưng không hề bất ngờ về bọn thầy thuốc thiếu lương tâm này.
Được một thời gian ông xin về thăm cố hương Hải Dương, mãi chúa mới cho phép. Nhưng không lâu sau, ông lại có lệnh triệu về kinh vì chúa ốm nặng. Ông chữa khỏi cho Trịnh Sâm và cũng miễn cưỡng chữa tiếp cho thế tử Trịnh Cán. Chúa lại trọng thưởng cho ông. Ông bắt buộc phải nhận nhưng nghĩ bụng: “Mình tuy không phải đã bỏ quên việc ẩn cư, nhưng nay hãy tạm nhận phần thưởng rồi sau vứt đi cũng được.” (Thượng kinh kí sự).
Cuối năm ấy, nhân có người tiến cử một lương y mới, Lê Hữu Trác liền lấy cớ người nhà ốm nặng rời kinh. Về nhà, ông viết tập Thượng kinh kí sự bằng chữ Hán, thuật lại những điều mắt thấy tai nghe trong chuyến đi từ Hương Sơn ra Thăng Long chữa bệnh cho cha con nhà chúa.
Trong lúc này ở Đàng Trong đã nổi dậy cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, chỉ cách 6 năm sau đó chúa Trịnh bị lật đổ hoàn toàn.
Bên cạnh những bức tranh tả cảnh thiên nhiên đầy chất trữ tình, tác phẩm phanh phui cuộc sống xa hoa trong phủ chúa và quyền uy, thế lực của nhà họ Trịnh.
Tập kí là một tác phẩm văn học vô cùng quý giá. Cùng với các trước tác về y học của ông,Thượng kinh kí sự không chỉ góp phần vào sự nghiệp của riêng Lê Hữu Trác với tư cách là nhà y học, nhà văn, nhà văn hóa lớn, mà còn có đóng góp đặc biệt quan trọng trong lịch sử văn học nước nhà.
Ông qua đời ngày rằm tháng Giêng năm Tân Hợi (1791) tại quê mẹ Bầu Thượng, thọ 71 tuổi. Địa danh đó nay đã đổi thành xã Sơn Trung (thuộc huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh), nhưng mãi còn lưu dấu ấn trong danh tiếng của một bậc vĩ nhân khiêm nhường: Hải Thượng Lãn Ông.