Các Trạng nguyên nổi tiếng nước ta từ thời nhà Mạc
Nhà Mạc tuy tồn tại thời gian không dài, thậm chí có bị coi là “ngụy triều” nhưng nhà mạc là nơi xuất thân của nhiều trạng nguyên nổi tiếng nước ta cho đến tận bây giờ.
Thái tổ Mạc Đăng Dung xuất thân con nhà võ, thi đỗ Đô lực sĩ (Trạng võ). Là hậu duệ bảy đời của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, ông cũng rất coi trọng việc học hành, thi cử, tuyển chọn nhân tài. Chỉ ba năm sau khi lên làm vua, ông đã tổ chức thi đại khoa theo lệ ba năm một lần của triều Lê. Khi làm Thượng hoàng, ông cho sửa sang lại Quốc tử giám đã bị chiến tranh tàn phá, và đích thân đến nhà Thái học làm lễ tế Khổng Tử.
Nhà Mạc chính thức tồn tại 65 năm, đóng đô ở Thăng Long. Trong thời gian đó, họ đã tổ chức được 22 khoa thi, lấy đỗ 485 tiến sĩ, trong đó có 13 trạng nguyên.
Năm 1592, khi quân Lê Trịnh do Chúa Trịnh Tùng thúc quân tổng tiến công đánh đến kinh thành Thăng Long, nhà Mạc vẫn tổ chức khoa thi bên kia sông Hồng. Đến khi phải chạy dạt lên chiếm cứ một rẻo đất Cao Bằng, các vua Mạc vẫn tiếp tục tổ chức thi cử.
Chính nhờ vậy, nhà Mạc đã có được nhiều ông trạng, ông nghè ra làm việc triều đình, giúp việc nước, nhiều trạng nguyên đã để lại dấu ấn trong lịch sử cho đến tận bây giờ
1. Trạng Nguyên Nguyễn Thiến
Nguyễn Thiến sinh năm 1495, đỗ Trạng nguyên khoa Nhâm Thìn (1532) đời Mạc Đăng Doanh, khi 37 tuổi. Ông làm quan tới chức Thượng thư bộ Lại, đứng đầu Ngự sử đài phụ trách giám sát quan lại và can gián vua. Về tước vị, ông được thăng Đông các đại học sĩ, Nhập thị kinh diên, Thư Quận công. Chỉ vì trong triều có kẻ vu oan giá họa, ông phải cùng thông gia là Lê Bá Ly đem quân về hàng quân Trịnh. Nguyễn Thiến được Trịnh Kiểm Thế tổ cho giữ chức tước cũ, và trong tám năm trước khi mất ông được giao tuyển chọn quan lại của nhà Lê ở Thanh Hóa.
2. Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm dưới thời nhà Mạc
Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491 trong một gia đình trâm anh thế phiệt, ông ngoại là quan Thượng thư, mẹ là người có tiếng tài hoa. Ông lại được thầy là Bảng nhãn Lương Đắc Bằng dạy dỗ. Sau một thời gian dài không đi thi do chán cho thời cuộc, khoa thi năm Ất Mùi (1535) do nhà Mạc tổ chức, Nguyễn Bỉnh Khiêm ứng thí và đỗ ngay Trạng nguyên. Khi ấy ông đã 44 tuổi và mới bắt đầu ra thi thố với đời. Về sự nghiệp bao trùm thời đại của ông, pqt.edu.vn đã có một viết bài riêng về ông với tiêu đề: Nguyễn Bỉnh Khiêm – Khổng Minh của Việt Nam
3. Trạng kế Giáp Hải người có công lớn với nhà Mạc
Một ông trạng cũng rất nổi tiếng là Giáp Hải. Ông trạng nguyên này có rất nhiều giai thoại bí ẩn về xuất xứ của mình. Người ta đồn rằng hồi nhỏ ông bị bắt cóc lên mạn ngược. Về sau, khi ông đã đỗ trạng, mẹ con ông mới nhận ra nhau qua nốt ruồi đỏ trên lưng trạng. Do quê ở làng Dĩnh Kế, Bắc Giang, nên ông được dân gian gọi là Trạng Kế.
Trạng nguyên Giáp Hải thông minh từ nhỏ, lại rất chăm chỉ dùi mài kinh sử. Tương truyền hồi nhỏ Trạng thường tới chân núi Kế ngồi dưới lùm cây, đặt chân lên một phiến đá đọc sách. Hòn đá chỗ cậu bé ngồi học còn in dấu hình bàn chân. Buổi tối cậu thường rang một túi hạt tiêu, khi nào buồn ngủ thì lấy ra nhấm nháp cho cay để tỉnh ngủ. Khi đã học “hết chữ” của các ông đồ trong vùng, cậu được cha cho lên kinh học. Khoa thi Mậu Tuất (1538) đời vua Mạc Đăng Doanh, Giáp Hải thi đỗ Trạng nguyên. Năm ấy ông 31 tuổi
Hai năm sau, Mạc Đăng Doanh đột ngột qua đời, con là Mạc Phúc Hải lên thay. Vì phải kiêng húy tên vua nên Giáp Hải mới đổi là Giáp Trưng.
Làm quan trong triều, Trạng nhiều lần dâng sớ nêu kế sách an dân, chấn chỉnh triều chính. Một lần, nhân có sao chổi (người xưa cho là điềm chẳng lành), Giáp Hải dâng sớ tâu “sáu điều đáng sợ”, trong đó nói thẳng những người bên cạnh vua đều là phường nịnh hót, dỗ dành nhà vua ăn chơi. Các quan bảy tám phần là người hám lợi, vơ vét chiếm đoạt ruộng đất của dân. Các tướng lĩnh thì năm bè bảy mối, đố kị lẫn nhau.
Rồi Giáp Hải thẳng thắn khuyên vua:
“Nếu bệ hạ chỉ say đắm về sự yên vui, không chịu răn chữa, sửa đổi thì sẽ có ngày nguy vong không sao giữ được.”
Mạc Mậu Hợp tiếp sớ, nhưng không làm theo dẫn đến nhà Mạc sụp đổ. Còn bọn gian nịnh thì gọi sau lưng ông là Trạng Ác.
Ít ai trong chốn quan trường xưa nay, được thăng chức hay phong tước lại luôn khước từ như Giáp Hải. Khước từ nhưng không được, Trạng đã năm lần phải lĩnh chức Thượng thư. Rồi lại phải ép nhận hàm Thái bảo, tước Luân Quận công… Ông năm lần bảy lượt xin về trí sĩ nhưng nhà vua không cho, ép phải ở lại tới năm 79 tuổi mới cho về. Chỉ mấy tháng sau ông mất.
4. Ông nghè Dương Văn An xuất thân từ khoa thi thời nhà Mạc
Thời nhà Mạc cũng nên nhắc tới một ông nghè khác nữa đó là Dương Văn An, quê ở Quảng Bình, đỗ Tiến sĩ khoa thi năm 1547 đời Mạc Phúc Nguyên. Ông đã để lại cho đời một cuốn địa phương chí tuyệt tác: Ô châu cận lục.
Đó là một tác phẩm có giá trị cả về khoa học và văn học. Sách gồm sáu quyển, viết rất sống động về núi rừng, sông biển, sản vật, hoa trái, cầm thú, phong tục tập quán xứ Thuận Hóa; kèm theo danh mục các phủ, huyện, châu, xã là những mô tả về thành quách, chợ búa, trang trại, bến đò, danh lam thắng cảnh, cùng tiểu sử của hơn một trăm nhân vật lịch sử thời Lê Sơ đến giữa thế kỉ 16: công thần, quan lại, những người đỗ đạt, sư tăng chân tu, phụ nữ tiết hạnh…
Với tác phẩm này, Dương Văn An xứng đáng được xem là danh nhân văn hóa thời Mạc.
5. Nữ trạng nguyên duy nhất nước ta xuất thân từ thời nhà Mạc
Sau khi thất thế trước chúa Trịnh, rút lên Cao Bằng, nhà Mạc vẫn tổ chức thi cử. Chính thời gian này đã xuất hiện một nữ trạng nguyên duy nhất của nước ta.
Bạn đang đọc bài viết về Trạng nguyên nổi tiếng nước ta xuất thân nhà Mạc của chuyên mục lịch sử nhà Mạc tại pqt.edu.vn
Nguyễn Thị Duệ quê làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Từ hồi thiếu nữ, cô đã nổi tiếng thông minh, tài sắc. Đến khi Trịnh Kiểm chiếm Thăng Long, cô cùng gia đình chạy theo lên Cao Bằng.
Năm 1594, Mạc Kính Cung tổ chức khoa thi Hội vừa lúc Nguyễn Thị Duệ tròn 20 tuổi. Thời phong kiến nước ta, đàn bà con gái không được học hành, thi cử, cô Duệ đã giả trai đi thi và đỗ đầu (tương đương với Trạng nguyên). Khi nhà vua mở yến tiệc thết đãi các tân khoa, thấy chàng thủ khoa trẻ tuổi, dáng thanh nhã, xinh đẹp liền tỏ ý nghi ngờ. Tuy bị phát hiện là gái giả trai, nhưng Nguyễn Thị Duệ không những không bị khép tội mà còn được vua ban khen, cho vào cung dạy các cung phi. Sau bà được tuyển làm Tinh Phi, vì thế dân gian quen gọi là Bà Chúa Sao (tinh trong tiếng Hán có nghĩa là sao).
Năm 1625, quân Lê Trịnh tiến vào Cao Bằng diệt nhà Mạc. Nguyễn Thị Duệ chạy vào rừng nhưng không thoát. Bắt được bà, vua Lê chúa Trịnh trọng người tài hoa, giữ bà ở trong cung dạy các cung tần mĩ nữ. Khi tuổi cao, bà cáo quan về mở quán Đào Hoa, đọc sách, làm thơ và dạy dỗ học trò ở quê nhà.
Thời nhà Mạc chiến tranh liên miên, nhưng cứ ba năm lại mở khoa thi, nhiều nhân vật lịch sử và trạng nguyên nổi tiếng để lại công trình nghiên cứu có ý nghĩa cho đến bây giờ, chứng tỏ các vua nhà Mạc rất chú trọng giáo dục, đào tạo nhân tài. Các triều đại sau coi nhà Mạc là “ngụy triều”, nhưng luôn coi trọng các nhân tài xuất thân qua khoa cử của họ. nhà Mạc thật xứng đáng có tên trong lịch sử văn hiến nước nhà.